HIỆN TƯỢNG “NỖI LO VỀ TỐ TỤNG CÔNG BẰNG” (DUE PROCESS PARANOIA) VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN TRONG TRỌNG TÀI (PHẦN 1)

HIỆN TƯỢNG “NỖI LO VỀ TỐ TỤNG CÔNG BẰNG” (DUE PROCESS PARANOIA) VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN TRONG TRỌNG TÀI (PHẦN 1)

HIỆN TƯỢNG “NỖI LO VỀ TỐ TỤNG CÔNG BẰNG” (DUE PROCESS PARANOIA) VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN TRONG TRỌNG TÀI (PHẦN 1)

HIỆN TƯỢNG “NỖI LO VỀ TỐ TỤNG CÔNG BẰNG” (DUE PROCESS PARANOIA) VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN TRONG TRỌNG TÀI (PHẦN 1)

HIỆN TƯỢNG “NỖI LO VỀ TỐ TỤNG CÔNG BẰNG” (DUE PROCESS PARANOIA) VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN TRONG TRỌNG TÀI (PHẦN 1)
HIỆN TƯỢNG “NỖI LO VỀ TỐ TỤNG CÔNG BẰNG” (DUE PROCESS PARANOIA) VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN TRONG TRỌNG TÀI (PHẦN 1)
HIỆN TƯỢNG “NỖI LO VỀ TỐ TỤNG CÔNG BẰNG” (DUE PROCESS PARANOIA) VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN TRONG TRỌNG TÀI (PHẦN 1)
TRANG CHỦ / TIN TỨC / BÀI VIẾT / HIỆN TƯỢNG “NỖI LO VỀ TỐ TỤNG CÔNG BẰNG” (DUE PROCESS PARANOIA) VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN TRONG TRỌNG TÀI (PHẦN 1)

HIỆN TƯỢNG “NỖI LO VỀ TỐ TỤNG CÔNG BẰNG” (DUE PROCESS PARANOIA) VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA TÒA ÁN TRONG TRỌNG TÀI

 

Phần 1: Góc nhìn từ Quyết định của Tòa án Singapore - Vụ kiện China Machine New Energy Corp v Jaguar Energy Guatemala LLC and anor [2020]*

Quyết định của Vụ kiện China Machine New Energy Corp v Jaguar Energy Guatemala LLC and anor [2020]: LINK 

 

1. Hiện tượng “Due Process Paranoia” và cách hiểu nguyên tắc “Tố tụng Công bằng”

 

“Nỗi lo về Tố tụng Công bằng” (Due Process Paranoia) là một thuật ngữ được đưa ra lần đầu tại báo cáo của White & Case kết hợp với Queen Mary University of London năm 2015, đề cập một hiện trượng trong trọng tài quốc tế khi các trọng tài viên lo ngại và hành động quá cẩn thận trong khi giải quyết vụ kiện vì sợ rằng phán quyết có thể bị hủy do một bên không được trình bày đầy đủ vụ kiện của mình.[1]

 

Nhiều người tham gia trong báo cáo White & Case kết hợp với Queen Mary University of London đã mô tả các tình huống như: thời gian bị gia hạn nhiều lần, chứng cứ mới được chấp nhận muộn trong quá trình tố tụng, các hành vi vi phạm thủ tục của luật sư các bên được tha thứ,…đều có thể khiến trọng tài viên rơi vào “Nỗi lo về Tố tụng Công bằng”.[2] Hậu quả của hiện tượng “Nỗi lo về Tố tụng Công bằng” sẽ khiến cho chi phí vụ kiện tăng và sự nhanh chóng của tố tụng giảm xuống.

 

Mặc dù “Tố tụng Công bằng” rất quan trọng trong trọng tài nhưng vẫn chưa có một khái niệm thống nhất rõ ràng. Các yếu tố cơ bản cần thiết của “Tố tụng Công bằng” thường bao gồm:[3]

(i) Thông báo hợp lý đến các bên: Các bên phải được thông báo đầy đủ và kịp thời về các thủ tục tố tụng, các yêu cầu hoặc cáo buộc của đối phương, cũng như thời gian, địa điểm của các phiên xử hoặc cuộc họp trọng tài; và

(ii) Cơ hội bình đẳng trình bày quan điểm: Mỗi bên có quyền được trình bày vụ án của mình, bao gồm việc cung cấp chứng cứ, bảo vệ quyền lợi và phản biện lại các yêu cầu của bên đối phương. Để làm được điều này, các trọng tài viên phải là những người có trình độ, độc lập và không thiên vị, đảm bảo rằng quyết định của họ không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ yếu tố nào bên ngoài.

 

2. Nghiên cứu về “Tố tụng Công bằng” theo Luật Mẫu UNCITRAL

 

Nguyên tắc “Tố tụng Công bằng” được thể hiện tại Điều 18 của Luật Mẫu UNCITRAL. Theo đó, các bên phải được đối xử một cách công bằng và được trao cơ hội đầy đủ để trình bày vụ kiện của mình. Ngoài ra, các yếu tố liên quan đến “Tố tụng Công bằng” cũng nằm trong các điều khoản riêng biệt ví dụ như Điều 16.2 (yêu cầu các bên phải đưa ra phản đối thẩm quyền, chậm nhất là tại Bản tự bảo vệ); Điều 23.2 (Cho phép Hội đồng trọng tài từ chối các yêu cầu thay đổi lời khởi kiện hay bào chữa); Điều 25.c (Cho phép hội đồng trọng tài đưa ra phán quyết trong các vụ kiện Ex-Parte).

 

Theo báo cáo của nhóm làm việc UNCITRAL, Điều 18 của Luật Mẫu UNCITRAL quy định hai yêu cầu cơ bản mà hội đồng trọng tài phải tuân thủ để đảm bảo công lý thủ tục, đó là: (i) đối xử bình đẳng giữa các bên; và (ii) tạo cơ hội đầy đủ để các bên trình bày trường hợp của mình. Nguyên tắc “Tố tụng Công bằng” của Điều 18 Luật Mẫu UNCITRAL còn áp dụng đối với cả chứng cứ và các lập luận về sự kiện và pháp lý. [4]

 

Ví dụ, mỗi bên được tạo cơ hội hợp lý để trình bày đầy đủ trường hợp của mình; mỗi bên được cho cơ hội để hiểu, kiểm tra và phản bác trường hợp của đối phương; nếu có phiên điều trần, thông báo đúng hạn được gửi và các bên cùng với cố vấn của họ có cơ hội tham gia suốt quá trình điều trần; và mỗi bên được tạo cơ hội hợp lý để trình bày chứng cứ và lập luận hỗ trợ cho trường hợp của mình.

 

Lưu ý, Điều 18 của UNCITRAL có mục dích để bảo vệ một bên khỏi hành vi sai trái và không hợp lý của hội đồng trọng tài, chứ không nhằm mục đích bảo vệ một bên khỏi những thất bại hoặc lựa chọn chiến lược của họ. [5] Điều đó có nghĩa rằng, nếu một bên không cố gắng thông báo hay chứng minh rằng quyền của họ đã bị vi phạm thì họ sẽ mất quyền viện dẫn sau này. Để thành công trong việc lập luận rằng một bên đã bị tước đi cơ hội trình bày trường hợp của mình, phải chứng minh rằng:

(a) một bên tham gia tố tụng hợp lý trong vị trí của nguyên đơn hoặc bị đơn sẽ không thể dự đoán được lý do của hội đồng trọng tài theo hướng như đã được nêu trong phán quyết và

(b) đã có thông báo đầy đủ, có thể đã có khả năng thuyết phục hội đồng trọng tài đưa ra kết quả khác.[6]

 

3. Quan điểm của Tòa án Singapore về “Tố tụng Công bằng” - Vụ kiện China Machine New Energy Corp v Jaguar Energy Guatemala LLC and anor [2020]

 

Singapore là một nước theo Luật Mẫu UNCITRAL. Như vậy, những quy định về “Tố tụng Công bằng” của Luật Singapore có điểm tương đồng với Luật Mẫu UNCITRAL.

 

Vụ kiện liên quan đến tranh chấp xây dựng một nhà máy phát điện tại Guatemala (“Nhà máy”) giữa China Machine New Energy Corp (“Nhà thầu”) và Jaguar Energy Guatemala LLC (Jaguar Energy) & AEI Guatemala Jaguar Ltd (“AEI Ltd”) (gọi chung là “Chủ Nhà máy”). Tranh chấp phát sinh từ hai thỏa thuận chính: Hợp đồng EPC và Hợp đồng bảo đảm thanh toán. Vì Nhà thầu trễ tiến độ Nhà máy nên Jaguar Energy thông báo chấm dứt Hợp đồng EPC. Vào tháng 1/2014, Jaguar Engery khởi kiện trọng tài đối với Nhà thầu theo Điều 20.2 của Hợp đồng EPC: xử tại Singapore theo ICC Rules 1998 dưới quy trình trọng tài rút gọn.

 

Sau khi có Phán quyết trọng tài, Nhà thầu đã yêu cầu hủy Phán quyết bởi Hội đồng trọng tài không quản lý tố tụng hiểu quả ở giai đoạn yêu cầu thu thập chứng cứ khiến Nhà thầu không kịp thời chuẩn bị và nộp các chứng cứ quan trọng. Cụ thể, những khó khăn này đã dẫn đến việc một báo cáo chuyên gia phản hồi quan trọng được chuẩn bị bởi chuyên gia đánh giá mức độ yêu cầu của Nhà thầu bị nộp muộn và do đó không được Hội đồng trọng tài xem xét đúng cách. Theo Nhà thầu, điều này đã vi phạm quyền được xét xử (right to be heard) của Nhà thầu theo Điều 18 của Luật Mẫu UNCITRAL, khiến Phán quyết có thể bị hủy theo Điều 34(2)(a)(ii) của Luật Mẫu và Điều 24(b) của IIA (Cap 143A, 2002 Rev Ed)  (vi phạm nguyên tắc công lý tự nhiên - breach of natural justice).

 

Tuy nhiên sau đó, Tòa Cấp cao bác bỏ yêu cầu của Nhà thầu về việc hủy Phán quyết. Thẩm phán từ chối lập luận của Nhà thầu rằng việc quản lý quá trình yêu cầu tài liệu (document production) của Hội đồng trọng tài là vi phạm quyền được lắng nghe của Nhà thầu, và cho rằng, trong bất kỳ trường hợp nào, Nhà thầu không chịu thiệt hại đủ lớn để có thể hủy bỏ Phán quyết. Đồng thời, Tòa Phúc thẩm (the Court of Appeal) cũng cùng quan điểm bác bỏ kháng cáo của Nhà thầu.

 

Trong vụ kiện China Machine New Energy Corp v Jaguar Energy Guatemala LLC and anor, tại đoạn 1 Quyết định không hủy phán quyết trọng tài, Thẩm phán Sundaresh Menon CJ đã giải thích về nguyên tắc “Tố tụng công bằng”, cụ thể:[7]quy trình tố tụng công bằng bao gồm một sự đảm bảo cơ bản về sự công bằng trong các thủ tục pháp lý. Nó yêu cầu mỗi bên phải được thông báo thích hợp về các thủ tục và các vấn đề mà họ phải đối mặt, cũng như có cơ hội công bằng để chuẩn bị và trình bày trường hợp của mình trước một người có quyết định trung lập và không thiên vị. Đây là những biện pháp bảo đảm tố tụng cơ bản được áp dụng nhằm đảm bảo tính công bằng trong quá trình giải quyết những quyền lợi thực chất của các bên. Tóm lại, quy trình tố tụng công bằng liên quan đến việc đảm bảo một quá trình công bằng, và đây là vấn đề quan trọng vì tính công bằng của quá trình là yếu tố không thể thiếu đối với tính hợp pháp của nó trong mắt các bên tham gia vào quá trình đó.”

 

Điểm đáng chú ý trong Quyết định của Tòa Phúc thẩm chính là việc Thẩm phán Sundaresh Menon CJ đã giải thích cách hiểu về “quyền được xét xử công bằng” (right to be heard) đồng thời phân định rõ giới hạn của quyền này. Quyền được xét xử công bằng nằm trong Điều 18 của Luật Mẫu UNCITRAL rằng, mỗi bên có cơ hội “đầy đủ” (full opportunity) để trình bày trường hợp của mình và phản đối ý kiến bên kia. Theo Thẩm phán Sundaresh, “cơ hội đầy đủ” không đồng nghĩa đây là một quyền vô hạn. Việc xác định một "cơ hội đầy đủ" là một câu hỏi mang tính bối cảnh, phải được xem xét trong bối cảnh cụ thể của các sự kiện và hoàn cảnh của từng vụ kiện.

 

Thẩm phán Sundaresh Menon CJ đã làm rõ rằng “quyền được trình bày đầy đủ hồ sơ vụ việc” không có nghĩa là cho phép một bên cản trở tiến trình tố tụng bằng thủ đoạn kéo dài ví dụ, chỉ trình bày các phản đối, sửa đổi hoặc bằng chứng mới vào sát ngày ra phán quyết. Cách tiếp cận đúng đắn mà tòa án cần áp dụng là tự hỏi liệu những gì hội đồng trọng tài đã làm (hoặc quyết định không làm) có nằm trong phạm vi những gì một hội đồng trọng tài hợp lý và công bằng trong hoàn cảnh đó có thể làm hay không.

 

4. “The Court must put itself in the shoes of the Tribunal”  (Tòa án phải đặt mình vào vị trí của Hội đồng trọng tài)

(Đoạn 104, Quyết định không hủy Phán quyết vụ China Machine New Energy Corp v Jaguar Energy Guatemala LLC and anor [2020] SGCA 12)

 

Trong vụ kiện, khi thực hiện việc xem xét có vi phạm “Công bằng Tố tụng”, tòa án phải đặt mình vào vị trí của hội đồng trọng tài, và điều này có nghĩa là:

(i) Các quyết định của hội đồng trọng tài chỉ có thể được đánh giá dựa trên những gì đã được biết và đưa ra sự chú ý của hội đồng trọng tài vào thời điểm có liên quan, và

(ii) Tòa án sẽ tôn trọng hội đồng trọng tài trong các vấn đề thủ tục và sẽ không can thiệp chỉ vì tòa án có thể làm điều gì đó khác đi (theo Đoạn [104] Quyết định).[8]

 

Phần lớn các khiếu nại được nêu ra dưới danh nghĩa vi phạm quy trình tố tụng thường liên quan đến công tác quản lý vụ kiện trọng tài cụ thể, bao gồm những vấn đề như gia hạn thời gian, quyền bổ sung chứng cứ, hay thậm chí cách thức trình bày và tiết lộ tài liệu cho các bên khác. Những vấn đề này thường và gần như chắc chắn thuộc thẩm quyền quyết định của hội đồng trọng tài, vốn chịu trách nhiệm chính trong việc giải quyết vụ việc một cách công bằng.

 

Theo quan điểm của Thẩm phán Sundaresh, khi các quyết định này sau đó bị xem xét tại tòa án, điều then chốt là tòa án phải chọn một lộ trình cân bằng giữa hai lợi ích có thể mâu thuẫn:

  • Thứ nhất, sự cần thiết phải bảo vệ một cách vững chắc những quyền của các bên trong quy trình tố tụng;

  • Thứ hai, tầm quan trọng của việc duy trì giới hạn phù hợp đối với quyền tự do quyết định của hội đồng trọng tài trong xử lý các chi tiết thủ tục của vụ án.

 


[1] White & Case, Queen Mary University of London, ‘2015 International Arbitration Survey: Improvements and Innovations in International Arbitration’ (2015), https://www.qmul.ac.uk/arbitration/media/arbitration/docs/2015_International_Arbitration_Survey.pdf, page 6 & 10.

[2] White & Case, Queen Mary University of London, ‘2015 International Arbitration Survey: Improvements and Innovations in International Arbitration’ (2015), https://www.qmul.ac.uk/arbitration/media/arbitration/docs/2015_International_Arbitration_Survey.pdf, page 10.

[3] Juliya Arbisman, Alexandre Genest, Emmanuel Giakoumankis, Due Process and Procedural Irregularities, Global Arbitration Review (2023), https://globalarbitrationreview.com/guide/the-guide-challenging-and-enforcing-arbitration-awards/3rd-edition/article/due-process-and-procedural-irregularities#footnote-036

[4] UNCITRAL 2012 Digest of Case Law on the Model Law on International Commercial Arbitration, https://uncitral.un.org/sites/uncitral.un.org/files/media-documents/uncitral/en/mal-digest-2012-e.pdf, page 97.

[5] UNCITRAL 2012 Digest of Case Law on the Model Law on International Commercial Arbitration, https://uncitral.un.org/sites/uncitral.un.org/files/media-documents/uncitral/en/mal-digest-2012-e.pdf, page 98.

[6] UNCITRAL 2012 Digest of Case Law on the Model Law on International Commercial Arbitration, https://uncitral.un.org/sites/uncitral.un.org/files/media-documents/uncitral/en/mal-digest-2012-e.pdf, page 98.

[7] Đoạn 1, Quyết định không hủy Phán quyết vụ China Machine New Energy Corp v Jaguar Energy Guatemala LLC and anor [2020] SGCA 12.

[8] Đoạn 104, Quyết định không hủy Phán quyết vụ China Machine New Energy Corp v Jaguar Energy Guatemala LLC and anor [2020] SGCA 12.

Copyright © 2019 ADR Vietnam Chambers LLC. All Rights Reserved